HỎI:
Sau khi cưới bố mẹ tôi có cho tôi một số tiền lớn để mua nhà, việc cho này không có giấy tờ gì làm chứng tuy nhiên họ hàng 2 họ đều biết. Số tiền này cộng với một ít tiền của cả 2 vợ chống tôi danh dụm được đã được dùng để mua nhà. Tôi muốn hỏi là khi chúng tôi chia tay thì căn nhà này có được coi là tài sản chung của cả 2 vợ chồng và phải chia đôi không?
TRẢ LỜI:
Theo quy định tại điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 quyền sử dụng đất có trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng! Nhưng nếu số tiền của bạn được tặng cho riêng thì tài sản đó là của riêng bạn.Khi ly hôn người kia chỉ được chia phần tiền mà 2 vợ chồng dành dụm chung thôi. Nếu số tiền lớn đó mà bố mẹ bạn tuyên bố cho chung cả 2 vợ chồng thì khi chia tay căn nhà trên phải chia đôi.
Nghị định Số 02/2000/NĐ-HĐTP ngày 23 tháng 12 năm 2000 hướng dẫn: Áp dụng một số quy định của luật hôn nhân và gia đình năm 2000 của Hội đồng Thẩm phán:
a. khoản 1 Điều 27 đã quy định tài sản chung của vợ chồng và hình thức sở hữu đối với tài sản chung của vợ chồng. “Những thu thập hợp pháp khác” của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể là tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng thưởng xổ số, mà vợ, chồng có được hoặc tài sản mà vợ chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định tại các Điều 247, 248, 249, 250, 251 và 252 Bộ luật dân sự… trong thời kỳ hôn nhân.
b. khoản 2 Điều 27 quy định: “Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ và chồng”.
Thực tiễn cho thấy chỉ có tài sản rất lớn, rất quan trọng đối với đời sống gia đình thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu mới ghi tên của cả vợ chồng (như: nhà ở, quyền sử dụng đất…), song cũng không phải trong mọi trường hợp. Đối với các tài sản khác phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng trong giấy chứng nhận thường chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng (như: xe môtô, xe ôtô, tàu, thuyền vận tải…). Mặt khác, khoản 1 Điều 32 đã quy định cụ thể về tài sản riêng của vợ chồng. Để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên, trong trường hợp tài sản do vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng trong giấy chứng nhận quyền sở hữu chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng, nếu không có tranh chấp thì đó là tài sản chung của vợ chồng; nếu có tranh chấp là tài sản riêng thì người có tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải chứng minh được tài sản này do được thừa kế riêng, được tặng riêng trong thời kỳ hôn nhân hoặc tài sản này có được từ nguồn tài sản riêng quy định tại khoản 1 Điều 32 (ví dụ: được thừa kế riêng một khoản tiền và dùng khoản tiền này mua cho bản thân một chiếc xe môtô mà không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng). Trong trường hợp không chứng minh được tài sản đang có tranh chấp này là tài sản riêng thì theo quy định tại khoản 3 Điều 27 tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng.